Cầm quyền Khmer_Đỏ

Bài chi tiết: Kampuchea Dân chủ

Năm 1975, khi những người Cộng sản Việt Nam giành được chính quyền trên cả nước Việt Nam, thì Khmer Đỏ cũng giành được chính quyền tại Campuchia, xây dựng quốc gia Campuchia Dân chủ. Quân đội của nhà nước này được gọi là Quân đội Quốc gia Kampuchea Dân chủ.

Lá cờ Kampuchea Dân chủ

Ban lãnh đạo Khmer Đỏ hầu như không thay đổi từ thập niên 1960 tới giữa những năm 1990. Thành phần lãnh đạo hầu hết xuất thân từ những gia đình trung lưu và đã được giáo dục tại các trường Đại học Pháp.

Ban thường vụ Ủy ban Trung ương của Khmer Đỏ trong giai đoạn cầm quyền gồm:

  • Pol Pot (Saloth Sar) (chết năm 1998), "Anh cả", Tổng Bí thư từ năm 1963 tới khi ông chết, lãnh đạo thực tế của phong trào. Pol Pot là một lãnh đạo chủ chốt của phong trào sau khi ông từ Pháp quay về Campuchia. Ông đã trở thành một thành viên của Đảng Cộng sản Pháp (PCF). Từ tháng 4 năm 1975 khi Khmer Đỏ giành được quyền lực, Pol Pot đã đưa ra những ý tưởng của Khmer Đỏ như ra lệnh xua đuổi trí thức từ thành thị về nông thôn,đóng cửa trường học, xóa bỏ Phật giáo và tiền tệ nhằm cải cách nông nghiệp...vv.
  • Nuon Chea (Long Bunruot), "Anh hai", Chủ tịch Quốc hội, được xem là "cánh tay phải" của Pol Pot , là nhà tư tưởng thực hiện các chính sách diệt chủng cũng như ra lệnh bắt giữ và hành quyết các thành viên của Khmer Đỏ bị kết tội phản bội. Nuon Chea đầu hàng chính phủ Campuchia vào tháng 12 năm 1998, bị bắt giữ năm 2007, chết năm 2019
  • Ieng Sary (anh em đồng hao của Pol Pot), "Anh ba", Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng ngoại giao, Ieng Sary cũng là người phụ trách các chính sách đối ngoại của Khmer Đỏ, Ieng Sary đầu hàng chính phủ của Hun Sen vào năm 1996, bị bắt giữ năm 2007,chết năm 2013
  • Khieu Samphan, "Anh tư", Chủ tịch Kampuchea Dân chủ từ năm 1975 đến năm 1979. Đến năm 1985 Khieu Samphan trở thành lãnh đạo chính của tàn quân Khmer Đỏ sau khi Pol Pot nhường quyền lãnh đạo lại cho y, tháng 12 năm 1998 Khieu Samphan chính thức đầu hàng chính phủ, Khieu Samphan bị bắt năm 2007
  • Ta Mok (Chhit Chhoeun) (chết 21 tháng 7 năm 2006), "Anh năm", biệt danh "Đồ tể", Bí thư khu Tây nam, Tư lệnh Khmer Đỏ từ năm 1975 và lãnh đạo cuối cùng của Khmer Đỏ đến năm 1999, Ta Mok là người phụ trách việc xua đuổi tri thức về nông thôn, cũng như ra lệnh thảm sát trong nhiều vụ thanh trừng nội bộ của Khmer Đỏ, Ta Mok bị bắt năm 1999, chết tại bệnh viện vào năm 2006 khi đang bị giam giữ chờ xét xử về tội diệt chủng
  • So Phim Bí danh So Vanna, "Anh sáu", Phó chủ tịch Quốc Hội và là bí thư quân khu Đông. Khác với nhiều thành viên cao cấp khác của Khmer Đỏ, So Phim là thành viên ôn hòa và là người có cảm tình với Việt Nam. Ông đồng thời cũng là cấp trên của Heng Samrin. Tháng 6 năm 1978 ông bị Pol Pot thanh trừng và bị kết tội phản bội vì "thân"" với Việt Nam. So Phim đã tự sát sau khi bị quân lính khu Tây Nam của Ta Mok bao vây.
  • Son Sen Bộ trưởng Quốc phòng và là người phụ trách an ninh của Khmer Đỏ, Son Sen đồng thời là lãnh đạo của Kaing Guek Eav tức "đồng chí Duch" tại nhà tù S21. (Son Sen đã bị Pol Pot kết tội phản bội và ra lệnh tử hình cả nhà Son Sen vào năm 1997).
  • Vorn Vet bí danh là So Thouk, Phó thủ tướng phụ trách kinh tế từ năm 1976. Vorn Vet được biết như là nhân vật hàng đầu và là tay chân thân tính của Pol Pot trước và sau khi Khmer Đỏ giành được chính quyền nhưng đã bị Pol Pot ra lệnh thanh trừng và bị sát hại tại nhà tù S21 vào cuối tháng 11 năm 1978)
  • Yun Yat Vợ của Son Sen Bộ trưởng thông tin từ năm 1977 sau khi Hu Nim bị thanh trừng, (chết năm 1997)
  • Ke Pauk (chết năm 2002), "Anh mười ba", Bí thư quân khu Trung ương.
  • Ieng Thirith Bộ Trưởng phụ trách vấn đề xã hội, bị bắt năm 2007, vợ của Ieng Sary đồng thời cũng là em vợ của Pol Pot [23]

Chia rẽ nội bộ

Sau khi cầm quyền, nội bộ Khmer Đỏ chia rẽ nghiêm trọng dẫn đến thanh trừng lẫn nhau. Nhóm Đông Bắc với nòng cốt là những sinh viên từ Paris trở về như Pol Pot, Ieng Sary, Son Sen, Khieu Samphan chủ trương xây dựng "xã hội cộng sản nông nghiệp thuần túy" theo kiểu Campuchia. Nhóm Tây Nam cũng do một số du học sinh từ Pháp về lãnh đạo bao gồm Hu Nim, Hou Yuon, Toch Phoum chủ trương tiến hành cách mạng văn hóa tại Campuchia mô phỏng theo Trung Quốc. Nhóm miền Đông bao gồm: So Phim, Keo Meas, Keo Muni là những Đảng viên kỳ cựu của đảng bộ Khmer thuộc Đảng Cộng sản Đông Dương muốn xây dựng xã hội chủ nghĩa theo mô hình Liên XôViệt Nam.

Sau khi lên cầm quyền, nhóm Đông Bắc của Pol Pot đã tiêu diệt hầu hết ban lãnh đạo của nhóm Tây Nam. Tháng 6/1978, nhóm miền Đông cũng bị tiêu diệt sau những cuộc khởi nghĩa quân sự chống Pol Pot thất bại. Một số ít còn sống sót, trong đó có Heng Samrin thuộc nhóm miền Đông chạy sang Việt Nam sau này sẽ trở thành lãnh đạo của Cộng hòa Nhân dân Campuchia.

Nhóm Pol Pot, Khieu Samphan cũng thể hiện tư tưởng chủ nghĩa dân tộc cực đoan qua việc nhấn mạnh đến sự vượt trội của người Khmer so với các tộc người khác. Từ rất sớm, Pol Pot đã nuôi tham vọng khôi phục lại đế chế Khmer khi xưa. Khmer Đỏ lúc này đã biến thành một dạng chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Nó duy trì vỏ bọc chủ nghĩa cộng sản để tận diệt những người cộng sản Campuchia, sử dụng ngôn ngữ cách mạng xã hội chủ nghĩa nhưng lại muốn phá hoại cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước khác. Trên thực tế, đến năm 1981 nhóm Khmer Đỏ đã chính thức tuyên bố từ bỏ chủ nghĩa cộng sản và tự đổi tên từ Đảng Cộng sản Campuchia thành Đảng Campuchia Dân chủ[2]

Thanh trừng nội bộ

Kể từ lúc giành được chính quyền tại Campuchia vào tháng 4 năm 1975, Pol Pot bắt đầu tiến hành một cuộc thanh trừng nội bộ nhằm mục đích xóa đi sự "ảnh hưởng" của Việt Nam tại Campuchia, những người bị nghi là gián điệp nước ngoài hoặc bất cứ ai phản đối chính sách của Pol Pot ở trong hàng ngũ Khmer Đỏ. Tất cả đều bị bắt giữ và đưa đến nhà tù an ninh S21 tra tấn buộc họ phải thừa nhận là gián điệp của CIA, KGB hoặc Việt Nam trước khi bị đem hành quyết tại "Cánh đồng chết". Đỉnh điểm là giai đoạn từ năm 1976 đến 1978 có khoảng hơn 200 cán bộ cấp cao nhất của Khmer Đỏ bị thanh trừng và bị giết chết như: Ney Sarran (Bí thư khu Đông Bắc), Koy Thuon (Bí thư khu Tây Bắc), Vorn Vet (Phó Thủ tướng phụ trách kinh tế), Hu Nim (Bộ trưởng Thông tin), Hou Yuon (Bộ trưởng Tài chính), Chou Chet ( Bí thư khu Tây), So Phim (Bí thư khu Đông), Toch Phuom (Bộ trưởng Công chính), Keo Meas (Bộ trưởng công thương), Keo Moni (Bộ trưởng Nông nghiệp)...vv.

Cải cách xã hội

Khi Pol Pot giành được quyền lực họ tập trung vào ý tưởng thành lập một xã hội nông nghiệp thuần khiết. Pol Pot ảnh hưởng mạnh tới việc tuyên truyền chính sách này. Mọi người tin rằng ông ta bị ảnh hưởng bởi cách sống của các bộ tộc vùng rừng núi đông bắc. Ông đánh giá cao cách họ sống "không có Phật giáo, tiền bạc hay giáo dục" và quyết định rằng đây là một cách thức tốt để người dân Campuchia bắt đầu sống. Ông muốn các định chế xã hội phải bị xóa bỏ và thiết lập xã hội toàn nông nghiệp. Đây là cách để ông "[tạo ra] một xã hội Cộng sản hoàn toàn mà không lãng phí thời gian cho các bước trung gian" như Khmer Đỏ nói với Trung Quốc năm 1975.[24] Trong suốt thời gian cầm quyền, Khmer Đỏ đã xây dựng xã hội theo mô hình "Công xã nhân dân" rập khuôn của Mao Trạch ĐôngCộng hòa Nhân dân Trung Hoa, cùng với khẩu hiệu "thanh lọc dân tộc" thực hiện cuộc tàn sát gần 2 triệu người Campuchia, mà nhiều người cho là diệt chủng man rợ, hoặc thanh lọc dân tộc ấu trĩ tả khuynh. Khmer Đỏ tiến hành một cuộc cải cách xã hội triệt để ở Campuchia với mục tiêu tạo ra một xã hội cộng sản dựa trên nông nghiệp thuần túy.[25] Khmer Đỏ bắt buộc khoảng 2 triệu người từ các thành phố về nông thôn để làm việc trên các cánh đồng. Họ không chỉ buộc người dân phải rời bỏ nhà cửa, mà sau đó còn tước bỏ của mọi người các quyền căn bản bằng cách kiểm soát hoạt động của người dân, cách ăn mặc, người được nói chuyện, và nhiều khía cạnh khác trong cuộc sống.

So với các đảng cộng sản khác đang nắm chính quyền thì đảng Cộng sản Campuchia khá non trẻ. Họ không có một quá trình phát triển lâu dài trước khi nắm chính quyền, không có những phân tích lý luận, thảo luận hay tranh luận với các khuynh hướng chính trị – tư tưởng khác tại Campuchia. Họ mau chóng nắm được chính quyền do Mỹ rút khỏi Đông Dương trong khi trình độ lý luận và kinh nghiệm chính trị của họ còn xa mới bằng trình độ của các đảng lớn khác khi giành được chính quyền. Tuy nhiên họ lại có tham vọng thực nghiệm những ý tưởng cải tạo xã hội đơn giản và cực đoan một cách quyết liệt và nhanh chóng bỏ qua mọi bước quá độ mà các đảng cộng sản khác trên thế giới đều từng trải qua khi cải cách xã hội. Khieu Samphan, người có bằng tiến sĩ kinh tế đồng thời là nhà tư tưởng của Khmer Đỏ, cho rằng cách mạng phải do giai cấp nông dân lãnh đạo. Ông có quan điểm tương tự với triết gia Jean-Jacques Rousseau rằng con người vốn là tốt, nhưng đã bị nền văn minh làm cho hư hỏng; xã hội công nghiệp càng văn minh thì con người càng hư hỏng. Vì vậy theo Khieu Samphan chỉ cần một hệ thống xã hội thật đơn giản với một nền kinh tế chủ yếu dựa trên nông nghiệp, tự cung tự cấp để duy trì sự “trong sạch và lành mạnh” của con người dưới sự lãnh đạo của một nhóm nhỏ trí thức ưu tú. Nhóm ưu tú sẽ làm công việc suy nghĩ thay cho tất cả, quần chúng chỉ làm công việc lao động. Những ý tưởng này được ban lãnh đạo Khmer Đỏ áp dụng vội vã mà không đem ra thảo luận công khai, rộng rãi trong toàn đảng. Khi nắm quyền lực, Khmer Đỏ đã tiến hành một chương trình quyết liệt gồm việc cách ly đất nước khỏi ảnh hưởng từ nước ngoài, đóng cửa trường học, bệnh viện và nhà máy, xóa bỏ ngân hàng, tài chính và tiền tệ, đặt ra ngoài vòng pháp luật mọi tôn giáo, tịch thu tất cả tài sản tư nhân và tái bố trí nhân dân từ các khu đô thị về các nông trang hợp tác xã nơi có tình trạng cưỡng bức lao động trên diện rộng. Mục tiêu của chính sách này nhằm biến người dân Campuchia trở thành "Người Cổ" thông qua lao động nông nghiệp. Những hành động này dẫn tới những cái chết hàng loạt vì hành quyết, làm việc quá sức, ốm yếu và đói khát.

Những khẩu hiệu khác, ám chỉ tới Dân tộc Mới, là: "Giữ mày cũng không có lợi. Giết mày cũng chẳng thiệt gì".[26] Triết lý của Khmer Đỏ đã phát triển cùng với thời gian. Khmer Đỏ đã nỗ lực biến Campuchia thành một xã hội thuần nhất bằng cách tản cư hoàn toàn dân cư thành thị và buộc họ ("Người Mới") vào các làng xã nông thôn. Toàn bộ dân số bị buộc phải trở thành những người nông dân trong các trại lao động. Tại Phnom Penh và các thành phố khác, Khmer Đỏ nói với dân chúng rằng họ sẽ chỉ bị chuyển đi "hai hay ba kilômét" ra ngoài thành phố và sẽ quay lại trong "hai hay ba ngày". Một số nhân chứng nói họ đã được ra lệnh di tản bởi "mối đe dọa từ những cuộc ném bom của Mỹ " và rằng họ không cần khóa cửa bởi Khmer Đỏ sẽ "chăm lo mọi thứ" cho tới khi họ quay lại. Đây không phải là những cuộc sơ tán dân thường đầu tiên của Khmer Đỏ. Những cuộc sơ tán tương tự mà dân chúng không được đem theo tài sản đã diễn ra ở mức độ nhỏ hơn ngay từ đầu thập niên 1970. Nghị quyết Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Campuchia ngày 15 tháng 10 năm 1975 nhận định: "Đường lối di dân của chúng ta là quan trọng nhất sau ngày 17-4-1975. Làm việc này, chúng ta thủ tiêu được mọi lực lượng chống đối, làm chủ đất nước 100%."[27][28]

Trong bốn năm cầm quyền, Khmer Đỏ đã bắt dân chúng làm việc quá sức trong tình trạng đói khát, cùng lúc họ hành quyết các nhóm dân chúng đã được lựa chọn, những người có khả năng gây hại cho nhà nước mới (gồm cả trí thức hay thậm chí những người có dấu hiệu có học thức, như đeo kính), và giết hại bất kỳ người nào vì những vi phạm nhỏ nhất. Nếu bị bắt, người có lỗi thường bị lẳng lặng dẫn vào một khu rừng hay cánh đồng và bị giết hại. Khmer Đỏ đã giết hại nhiều trí thức, cư dân thành thị, người dân tộc thiểu số, và nhiều đảng viên cũng như binh sĩ của chính họ, những người bị nghi ngờ là phản bội.[29] Dân số Campuchia khoảng 7,100,000 người ở thời kỳ đầu cầm quyền của Khmer Đỏ. Trong mười năm sau đó, 3,300,000 người (gồm cả nam giới, phụ nữ, trẻ em và người nước ngoài) bị giết hại và tới cuối cuộc diệt chủng chỉ còn chưa tới 4 triệu người sống sót khỏi chế độ Khmer Đỏ.[30] Khmer Đỏ muốn loại bỏ bất kỳ ai bị nghi ngờ "tham gia vào các hoạt động của thị trường tự do ". Những thợ chuyên nghiệp bị nghi ngờ liên thuộc tư bản và hầu hết mọi người có giáo dục, nhiều dân thành thị, và những người có quan hệ với các chính phủ nước ngoài. Khmer Đỏ cũng thanh trừng nội bộ dữ dội đối với những người cộng sản thân Liên Xô hoặc Việt Nam.

Tiền tệ bị xóa bỏ, sách vở bị đốt, giáo viên, thương nhân, và hầu hết giới trí thức đất nước bị giết hại, để thực hiện chế độ cộng sản nông nghiệp, như Pol Pot mong muốn. Kế hoạch tái định cư dân chúng về vùng nông thôn khiến hầu như một nửa hoạt động kinh tế: thập chí cả các trường học, bệnh viện bị đóng cửa, cũng như toàn bộ ngân hàng, và các công ty công nghiệp và dịch vụ. Các ngân hàng bị cướp phá và toàn bộ tiền tệ cũng như hồ sơ bị đốt bỏ để loại bỏ bất kỳ yêu cầu nào với tiền tệ.

Người Campuchia được yêu cầu sản xuất ra ba tấn gạo mỗi hécta; trước thời kỳ Khmer Đỏ, sản lượng trung bình chỉ một tấn mỗi hécta. Khmer Đỏ buộc mọi người làm việc liên tục 12 giờ, không được nghỉ hay ăn uống đầy đủ. Họ không tin vào thuốc men của phương Tây, thay vào đó chuộng loại thuốc truyền thống của nông dân; vì thế nhiều người đã chết. Sự hoàn toàn thiếu hiểu biết về nông nghiệp của các cư dân thành thị cũ khiến nạn đói trở nên không thể tránh khỏi. Những hành động như hái củ hay quả dại bị coi là "tư tưởng cá nhân" và bị kết tội chết.

Mối quan hệ gia đình vốn được nhà nước thừa nhận cũng bị cấm đoán, và các thành viên gia đình có thể bị tội chết nếu liên lạc với nhau. Trong bất kỳ trường hợp nào, các thành viên gia đình thường bị đưa tới những địa điểm khác nhau trong nước với tất cả các dịch vụ thư tín và viễn thông đã bị xóa bỏ. Khmer Đỏ tin rằng các bậc cha mẹ đã bị hư hỏng với chủ nghĩa tư bản. Vì thế, trẻ em bị cách ly khỏi cha mẹ và được giáo huấn chủ nghĩa cộng sản cũng như được dạy các biện pháp tra tấn súc vật. Trẻ em là một "công cụ chuyên chính của đảng "[31] và được giao quyền lãnh đạo việc tra tấn và hành quyết.

Ngôn ngữ cũng bị chuyển đổi theo những hình thức khác. Khmer Đỏ phát minh ra những thuật ngữ mới. Mọi người được tuyên truyền để "tạo ra" (lot dam) một nhân vật cách mạng mới, là "những công cụ" (ឧបករណ៍; opokar) của cơ quan cầm quyền được gọi là "Angkar" (អង្គការ, "Tổ chức"), và việc lưu luyến với những thời kỳ tiền cách mạng (chheu satek arom, hay "ký ức bệnh hoạn") có thể dẫn tới việc bị hành quyết. Tương tự, những thuật ngữ nông thôn như Mae (ម៉ែ; mẹ) bị thay thế bằng những thuật ngữ như Mak (ម៉ាក់; mẹ). Tiếng Khmer có một hệ thống sử dụng phức tạp để định nghĩa vị thế và cấp bậc của người nói. Trong thời cai trị của Khmer Đỏ, việc sử dụng chúng bị bãi bỏ. Mọi người được khuyến khích gọi nhau là "bạn" hay "đồng chí" (មិត្ត; mitt), và tránh những dấu hiệu tôn trọng theo truyền thống như cúi mình hay khoanh tay chào, được gọi là samphea.

Nhiều người Campuchia đã vượt biên vào Thái Lan xin tị nạn. Từ đây, họ bị chuyển vào các trại tị nạn như Sa Kaeo hay Khao-I-Dang, trại duy nhất cho phép tái định cư tại các quốc gia như Hoa Kỳ, Canada, và Australia. Trong một số trại tị nạn như tại Site 8, Phnom Chat hay Ta Prik cán bộ Khmer Đỏ kiểm soát việc phân phối lương thực và hạn chế hoạt động của các cơ quan viện trợ nước ngoài.[32]

Những tội ác chống lại loài người

Hành động diệt chủng

Bài chi tiết: Diệt chủng Campuchia
Đầu lâu các nạn nhân của Khmer Đỏ.Xương cốt các nạn nhân của Khmer Đỏ tại Hang Kampong Trach, Đồi Kiry Seila, Rung Tik (Hang Nước) hay Rung Khmao (Hang Chết).

Chính phủ Khmer Đỏ đã bắt giữ, tra tấn và sau đó hành quyết bất kỳ ai bị nghi ngờ thuộc một trong nhiều tiêu chí bị nghi ngờ là "kẻ thù":

  • Bất kỳ ai có quan hệ với chính phủ cũ hay các chính phủ nước ngoài.
  • Người chuyên nghiệp và trí thức – trên thực tế tiêu chí này bao gồm hầu hết mọi người có giáo dục, hay thậm chí những người đeo kính (mà, theo chế độ, có nghĩa là họ có học). Chính Pol Pot là một người có trình độ giáo dục đại học (dù bỏ ngang) với lòng yêu mến văn học Pháp và cũng là một người nói thạo tiếng Pháp. Nhiều nghệ sĩ, gồm cả các nhạc sĩ, tác gia và nhà làm phim đã bị hành quyết. Một số người như Ros Sereysothea, Pan RonSinn Sisamouth đã có được danh tiếng nhờ tài năng và đến ngày nay vẫn được người Khmer biết đến.
  • Sắc tộc Việt Nam, sắc tộc Trung Quốc, sắc tộc Thái và các sắc tộc thiểu số khác ở Cao nguyên miền Đông, người Campuchia theo Cơ đốc giáo (hầu hết là Công giáo), tín đồ Hồi giáo (người Chăm) và các tu sỹ Phật giáo. Thánh đường Công giáo ở Phnom Penh bị phá hủy hoàn toàn. Khmer Đỏ buộc các tín đồ Hồi giáo phải ăn thịt lợn, thứ họ kiêng (ḥarām). Nhiều người từ chối thực hiện bị giết hại. (Một chính sách tương tự cũng được thực hiện ở Trung Quốc thời Mao Trạch Đông, nơi những tín đồ Hồi giáo bị buộc phải nuôi lợn). Giáo sĩ Công giáo và Hồi giáo bị hành quyết. Một trong những chỉ huy cũ của Khmer Đỏ, Comrade Duch, đã chuyển theo Công giáo vài năm sau khi chế độ này sụp đổ[33].
  • "Những kẻ phá hoại kinh tế": nhiều người dân thành thị cũ (những người chưa chết vì đói khát) được cho là có tội vì thiếu khả năng làm nông nghiệp.
Tháp tưởng niệm các nạn nhân của chế độ diệt chủng

Trong suốt những năm 1970, và đặc biệt sau nửa đầu năm 1975, đảng cũng rung chuyển bởi những cuộc đấu tranh phe nhóm. Đã có những âm mưu quân sự lật đổ Pol Pot. Những cuộc thanh trừng sau đó lên đến đỉnh điểm năm 1977 và 1978 khi hàng nghìn người, gồm cả một số lãnh đạo quan trọng của Đảng Cộng sản Kampuchea bị hành quyết.

Ngày nay, các ví dụ về các phương pháp tra tấn được Khmer Đỏ sử dụng được trưng bày trong Bảo tàng diệt chủng Tuol Sleng. Bảo tàng được dựng trên nền đất cũ của một trường trung học bị biến thành trại tù do Khang Khek Ieu (Kaing Guek Eav) chỉ huy, thường được biết với cái tên "Đồng chí Duch". Khoảng 17,000 đã bị chuyển qua trung tâm này trước khi họ bị đưa tới những địa điểm (cũng được gọi là những cánh đồng chết), bên ngoài Phnom Penh như Choeung Ek nơi hầu hết bị hành quyết (chủ yếu bằng cuốc chim để tiết kiệm đạn) và bị chôn trong những ngôi mộ tập thể. Trong hàng nghìn người phải vào Trung tâm Tuol Sleng (còn được gọi là S-21), chỉ 12 người sống sót. Những người này được cho là đã còn sống bởi có kỹ năng, được những kẻ giam giữ coi là hữu ích.

Những tòa nhà tại Tuol Sleng đã được giữ nguyên như khi Khmer Đỏ rút khỏi đây năm 1979. Nhiều phòng hiện treo những bức ảnh đen trắng của hàng nghìn người do Khmer Đỏ chụp.[34]

Số lượng người chết

Con số chính xác những người chết vì những chính sách của Khmer Đỏ đã bị tranh cãi, bởi nguyên nhân của cái chết của họ. Việc tiếp cận nước này trong thời kỳ cầm quyền của Khmer Đỏ và thời kỳ Việt Nam có mặt rất hạn chế. Đầu những năm 1980, chế độ do người Việt Nam hậu thuẫn kế tục Khmer Đỏ đã tiến hành một cuộc điều tra dân số trên toàn quốc, với kết luận rằng hơn 4.8 triệu người đã chết, nhưng hầu hết các nhà sử học hiện đại coi con số trên là không chính xác.

Những cuộc khảo sát hiện đại đã định vị được hàng nghìn ngôi mộ tập thể từ thời Khmer Đỏ trên khắp Campuchia. Nhiều cuộc điều tra ước tính con số người chết trong khoảng 740,000 tới 3,000,000, hầu hết trong khoảng 1.4 triệu tới 2.2 triệu, với khoảng một nửa chết vì bị hành quyết, và số còn lại vì đói khát và bệnh tật.[35]

Dự án Diệt chủng Campuchia của trường Yale được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ tài trợ đưa ra các ước tính con số người chết xấp xỉ 1.7 triệu người, chiếm khoảng 21% dân số.[36] R. J. Rummel, một phân tích lịch sử những vụ giết hại chính trị, đưa ra con số 2 triệu.[37]

Đối ngoại

Sau khi nắm quyền, Khmer Đỏ xa lánh phương Tây. Khmer Đỏ cũng trục xuất đại sứ Liên Xô về nước vì Liên Xô trước đó đã không hỗ trợ nhiều cho họ, thậm chí Liên Xô từng cân nhắc một thỏa thuận hòa bình năm 1972 đối với Đông Dương sẽ giúp chế độ Lon Nol tiếp tục nắm chính quyền. Khmer Đỏ cũng bác bỏ đề nghị đàm phán xây dựng mối quan hệ đặc biệt từ phía Việt Nam do lo ngại nước này âm mưu áp đảo Campuchia và lôi kéo Campuchia vào một Liên bang Đông Dương. Khmer Đỏ tìm đến Trung Quốc để có được sự hậu thuẫn của nước này dù rằng Trung Quốc từng ủng hộ Hoàng thân Norodom Sihanouk chống lại Khmer Đỏ suốt những năm 1960 và không nhiệt tình ủng hộ họ chống Lon Nol. Trung Quốc đồng ý ủng hộ Khmer Đỏ, nhưng tuyên bố rằng chính phủ mới sẽ được dẫn dắt bởi Sihanouk. Trung Quốc cần một đồng minh tại Đông Nam Á để thay thế cho Việt Nam trong lúc quan hệ Việt Trung ngày càng xấu đi và đồng thời chống lại nguy cơ bá quyền của Việt Nam ở Đông Dương. Trung Quốc ủng hộ Campuchia do lo sợ Việt Nam sẽ bành trướng ở Đông Dương. Theo một điện tín từ Đại sứ quán Mỹ ở Malaysia gửi Bộ Ngoại giao Mỹ vào ngày 27 tháng 4 năm 1978, sau một cuộc họp với một thành viên của chính phủ Thụy Điển vừa đến thăm Trung Quốc, “[Ngoại trưởng Trung Quốc] Hoàng Hoa lưu ý rằng khi người Việt đã đánh bại Mỹ và thu được số lượng lớn vũ khí của Mỹ, họ đã trở nên ‘tự cao tự đại’ và họ đã ấp ủ từ lâu những kế hoạch cho một Liên bang Đông Dương”. Ngược lại Khmer Đỏ tuyên bố "kiên quyết và dứt khoát phản đối các thế lực bên ngoài có hành động can thiệp dưới mọi hình thức vào những vấn đề nội bộ của Campuchia". Đại sứ quán Trung Quốc ở Phnom Penh mở cửa trở lại. Khmer Đỏ nhận được viện trợ của Trung Quốc, đổi lại họ sẽ ủng hộ tư tưởng “Ba Thế giới” của Trung Quốc và hậu thuẫn Bắc Kinh chống lại Liên Xô. Tuy nhiên Khmer Đỏ luôn nghi ngờ Trung Quốc vì sợ nước này sẽ biến Campuchia thành vệ tinh của Trung Quốc.[22][38]

Mao Trạch Đông đã tỏ ra lo ngại về các chính sách cực đoan của Khmer Đỏ. Ông đã cảnh báo Pol Pot: “Anh không nên sao chép y hệt kinh nghiệm của Trung Quốc, mà hãy suy nghĩ theo hoàn cảnh riêng mình. Theo lời Mác, lý thuyết của ông ấy là một tôn chỉ dẫn đường cho hành động, nhưng không phải là một học thuyết.” Nhưng sau đó Mao khen ngợi Pol Pot: “chỉ một lần thực hiện mà ông đã đạt được điều mà tất cả chúng tôi đã thất bại.”. Chu Ân Lai cũng từng cảnh báo "Các anh phải hết sức cẩn thận, vì con đường đi lên chủ nghĩa cộng sản rất chông gai và nguy hiểm. Nếu các anh cố tình bỏ qua những phương cách khôn khéo và thận trọng, thì chắc chắn sẽ khiến nhân dân mình phải hứng chịu một tấm thảm kịch… Chủ nghĩa cộng sản phải như một món quà các anh dâng tặng người dân, món quà tự do và tự chủ toàn vẹn.". Tuy nhiên Khmer Đỏ đã bỏ qua mọi cảnh báo từ phía lãnh đạo Trung Quốc. Dù vậy Khmer Đỏ vẫn ủng hộ các chính sách ngoại giao của Trung Quốc.[38]

Sự viện trợ của Trung Quốc không đi kèm với những điều kiện chính trị. Noun Chea nói: “Trung Quốc đã hỗ trợ chúng tôi vũ khí,” chủ yếu tiếp tế các loại vũ khí hạng nhẹ, nhưng “không bao giờ bán vũ khí” cho Campuchia Dân chủ. Ông bổ sung: “Không hề có hỗ trợ nào trong lĩnh vực chính trị, Trung Quốc chỉ viện trợ đơn thuần về kỹ thuật” và “theo như tôi được biết, mọi viện trợ từ Trung Quốc, dù là về quân sự, hay quần áo nhu yếu phẩm” đều được cung cấp “mà không có bất kỳ điều kiện gì dưới mọi hình thức”. Lãnh đạo Khmer Đỏ chào đón viện trợ từ Trung Quốc nhưng vẫn lo ngại bị phụ thuộc. Tại một phiên họp tháng 6/1976, một quan chức cấp cao của Đảng Cộng sản Campuchia đã phát biểu: “Nếu chúng ta không mạnh mẽ và không nhanh chóng phát triển nhảy vọt, những kẻ thù bên ngoài sẽ chỉ chực chờ nghiền nát chúng ta. Kẻ thù dù có ở dạng nào thì cũng đều muốn những nước nhỏ làm đầy tớ cho họ.”. Kế hoạch kinh tế 4 năm của Campuchia cho rằng Campuchia cần sự giúp đỡ của các nước đồng minh nhưng cũng ghi nhận "Trung Quốc có cung cấp viện trợ, nhưng cũng không nhiều nếu so với các nước khác. Đây là chính sách của Đảng ta. Nếu nước ta đi cầu khẩn các nước khác giúp đỡ, chắc chắn phần nào sẽ được đáp lại, nhưng làm vậy sẽ ảnh hưởng đến lập trường chính trị của chúng ta. Xin được viện trợ từ Liên Xô không dễ. Việt Nam vẫn đang phải quanh quẩn gần bên để xin xỏ Liên Xô. Chúng ta sẽ không theo chân họ. Nguyên nhân là bởi, nếu chúng ta xin họ giúp đỡ, dù ít hay nhiều, chắc chắn sẽ có những điều kiện chính trị kèm theo áp đặt lên nước ta.". Trong nạn đói năm 1977, Campuchia Dân chủ miễn cưỡng tiếp nhận viện trợ lương thực từ bên ngoài. Các quan chức Trung Quốc có lúc tức giận vì Khmer Đỏ từ chối nhận viện trợ và ý kiến cố vấn của họ. Trung Quốc tin rằng Khmer Đỏ đã thực thi chủ nghĩa quân bình và tự cường quá đà. Trung Quốc nhìn chung vẫn hành xử theo nguyên tắc không can thiệp. Họ không dám đe dọa cắt đứt viện trợ để gây sức ép lên ban lãnh đạo Khmer Đỏ khi những người này thực thi các chính sách tàn bạo làm Trung Quốc cảm thấy "choáng váng và tức giận".[38]

Ngay từ khi mới giành được chính quyền, Khmer Đỏ đã gây hấn với các nước láng giềng là Việt Nam và Thái Lan.[39] Khmer Đỏ muốn lấy lại các lãnh thổ thuộc đế chế Angkor đã bị các quốc gia láng giềng như Thái Lan, Việt Nam chiếm. Hành động này bắt nguồn từ chủ nghĩa dân tộc được khơi dậy từ thời Pháp thuộc, từng được cả Sihanouk và Lon Nol ủng hộ. Sihanouk, Lon Nol và sau này là Pol Pot đều xem các nước lân cận là kẻ thù truyền kiếp vì đã tiêu diệt đế quốc Khmer, xâm chiếm đất đai của Campuchia. Các cuộc xung đột lẻ tẻ trên biên giới Thái Lan và Campuchia diễn ra do tranh chấp các vùng lãnh thổ nhỏ dọc biên giới tại các tỉnh Trat, Aranyaprathet-Poipet[40]Surin, bắt đầu từ tháng 4 năm 1975 và gia tăng mạnh trong tháng 11. Ngoài tranh chấp biên giới, cuộc xung đột còn có nguồn gốc do các lực lượng Khmer Serei chống Khmer Đỏ sử dụng lãnh thổ Thái làm căn cứ xuất phát để tấn công Khmer Đỏ.[41] Đáp lại, Khmer Đỏ cũng hỗ trợ lực lượng cộng sản Thái Lan thiết lập "Angka Siam" chống đối chính quyền Thái, và huấn luyện lực lượng này từ các tỉnh tỉnh Sisaket, Buriram và tỉnh Surin trên biên giới Thái.[39]

Trong năm 1976, dưới chính quyền bảo thủ của Thanin Kraivichien, được giới quân sự hỗ trợ, Thái Lan đã tính đến việc sử dụng quân đội tổng tấn công Khmer Đỏ để ngăn chặn các cuộc các cuộc đột kích qua biên giới ngày càng gia tăng.[39] Xung đột biên giới từ tháng 11 năm 1976 còn trở nên tồi tệ hơn thời kỳ trước năm 1976. Chỉ kể từ tháng 1 tới tháng 8 năm 1977, quân Khmer Đỏ đã hơn 400 lần đột kích qua lãnh thổ Thái Lan, giết chóc, cướp phá và bắt cóc dân thường mang qua Campuchia.[42] Cùng thời gian, Khmer Đỏ cũng bắt đầu xung đột với Lào.[43]

Tuy nhiên, khi chính quyền Thanin sụp đổ, Thái Lan bắt đầu tiến hành thương thuyết với Khmer Đỏ để giải quyết xung đột, nhằm cân bằng ảnh hưởng của Việt Nam mà Thái Lan cho rằng đang chiếm ưu thế trên bán đảo Đông Dương.[39] tới tháng 10 năm 1977, ngoại trưởng Thái gặp ngoại trưởng Khmer Đỏ Ieng Sary tại trụ sở Liên Hiệp Quốc tại New York, hai bên chấp thuận chấm dứt xung đột. Dù vậy, các cuộc chạm trán tại biên giới giữa Thái Lan và Khmer Đỏ tiếp tục tiếp diễn cho tới khi quân Việt Nam lật đổ Pol Pot đầu năm 1979 và thiết lập một chính quyền thân Việt Nam tại Campuchia. Quan hệ giữa Thái Lan và Khmer Đỏ chuyển từ thù địch thành đồng minh, và Thái Lan như vậy ngay từ đầu đã tham gia tích cực vào cuộc xung đột tại Campuchia.[39]

Từ 1975 – 1978, tin vào sự hậu thuẫn của chính quyền Trung Quốc và xem Việt Nam là một quốc gia chìm đắm trong các vấn đề kinh tế xã hội, ngại chiến tranh cũng như đánh giá quá cao khả năng tác chiến của binh lính Khmer Đỏ[44] nên chính quyền Khmer Đỏ đã nhiều lần tấn công biên giới Tây Nam Việt Nam, tàn sát thường dân, đánh phá các cơ sở kinh tế và quân sự dọc biên giới với mục đích làm kiệt quệ đối phương. Trong giai đoạn 1975 đến giữa 1977, quân đội Việt Nam kém chủ động và đánh giá thấp ý chí của Khmer Đỏ định mở cuộc chiến xâm lược chống Việt Nam nên các lực lượng quân địa phương Việt Nam kém cảnh giác và ít chuẩn bị khiến việc điều động quân bị chậm[44]. Ban lãnh đạo Khmer Đỏ tin rằng chiến tranh là lựa chọn duy nhất để đối phó "vấn đề Việt Nam" đồng thời giúp họ tìm ra "những người Khmer có đầu óc Việt Nam" và họ sẽ chiến thắng trong một cuộc chiến kéo dài với Việt Nam[44]. Những hành động này, cùng với làn sóng di tản của người Campuchia chạy trốn chính quyền Khmer Đỏ đã làm quan hệ giữa Việt Nam và Campuchia đổ vỡ hoàn toàn. Việt Nam xem vấn đề Campuchia là "quan trọng nhất" bao gồm không những là cuộc chiến tranh gây ra bởi chính thể Pol Pot – Ieng Sary có Trung Quốc đứng sau lưng, và những tội ác Khmer Đỏ gây ra với nhân dân Việt Nam mà còn là vấn đề "độc lập quốc gia và cách mạng Campuchia" mà Campuchia phải tự giải quyết[44]. Việt Nam ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô Viết tháng 11/1978 nhằm bảo đảm cho Việt Nam khả năng lật đổ chính quyền Pol Pot ở Campuchia và ngăn không để Trung Quốc xâm lược Việt Nam đồng thời giúp Việt Nam phát triển kinh tế[44]. Sợ rằng Việt Nam sẽ có phản ứng về mặt quân sự, Pol Pot phát lệnh tấn công phủ đầu Việt Nam. Tuy nhiên, dù được Trung Quốc hỗ trợ,[45] quân Campuchia vẫn nhanh chóng bị quân đội chính quy Việt Nam đẩy lùi và nhanh chóng thất trận. Quân Việt Nam tràn qua biên giới phản công Campuchia (các nước phương Tây và Trung Quốc gọi hành động này là xâm lược) và đến mùng 7 tháng 1 năm 1979 thì chiếm được Phnom Penh. Việt Nam, sau đó, hỗ trợ những người Cộng sản Campuchia thân Việt Nam tái lập lại Đảng Nhân dân Cách mạng Khmer và sau khi đưa quân vào Campuchia đã thành lập chính quyền Cộng hòa Nhân dân Campuchia thay chính quyền Khmer Đỏ vào năm 1979.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Khmer_Đỏ http://119.15.167.94/qdndsite/vi-vn/61/43/phong-su... http://www.bbc.com/news/world-asia-pacific-1068439... http://www.country-data.com/cgi-bin/query/r-2091.h... http://www.economist.com/world/international/displ... http://books.google.com/books?id=3NHoI2HoFiQC&prin... http://books.google.com/books?id=KoaKt8a_7ngC http://books.google.com/books?id=Mq8sAcvg-AgC http://books.google.com/books?id=OWVFpQjmNaAC http://www.nybooks.com/articles/archives/2011/jan/... http://www.phnompenhpost.com/national/pol-pot-dile...